Trang chủ >

Nghiên cứu - Phân tích

Thông tin kinh tế tài chính từ ngày 2/1/2023 đến ngày 6/1/2023

Tin kinh tế vĩ mô

Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, ở kịch bản lạc quan nhất, GDP năm 2023 tăng 6,83%, cao hơn 0,33 điểm phần trăm so với mục tiêu của Chính phủ. Ngày 12/1, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam 2023. Trong kịch bản 1, kinh tế năm nay có thể tăng trưởng 6,47%, gần sát với mục tiêu 6,5% mà Chính phủ đề ra. Ở kịch bản 2, với điều kiện kinh tế thế giới lạc quan hơn, GDP Việt Nam sẽ tăng 6,83%, cao hơn mục tiêu của Chính phủ. CIEM nhận định, nếu Việt Nam tiếp tục cải cách nhanh, tăng năng suất, kịch bản 2 có thể đạt được.

Chỉ tiêu

Kịch bản 1

Kịch bản 2

Tăng trưởng GDP

6,47

6,83

Lạm phát bình quân

4,08

3,69

Tăng trưởng xuất khẩu

7,21

8,43

Cán cân thương mại (tỷ USD)

5,64

8,15

              Gần đây, một số tổ chức quốc tế cũng đưa ra dự báo tăng trưởng cho Việt Nam. Cụ thể, HSBC tỏ ra thận trọng với mức 5,8%; World Bank đưa ra con số 6,3% với đánh giá Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức vừa phải do hoạt động xuất khẩu sang các thị trường chính chậm lại; còn Standard Chartered lại lạc quan với mức đánh giá GDP có thể tăng đến 7,2%.

Theo CIEM, so với các năm trước, triển vọng kinh tế năm nay có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố hơn như khả năng kiểm soát sự lây lan của các biến thể virus corona, các dịch bệnh mới; mức độ thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế chủ chốt nhằm xử lý áp lực lạm phát; xung đột Nga - Ukraine có thể kéo dài; khả năng đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...

Trước đó, Chính phủ cũng đánh giá, tăng trưởng kinh tế sẽ gặp nhiều thách thức trước nguy cơ suy thoái toàn cầu, còn trong nước, các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ tăng lạm phát rất lớn, việc kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực khó khăn...

Do vậy, CIEM cho rằng, trong năm 2023, Việt Nam càng phải lưu ý các yêu cầu đổi mới để cải thiện chất lượng tăng trưởng. Theo đó, khung chính sách cho đổi mới sáng tạo cần được hoàn thiện hơn nữa, có thể thí điểm các ý tưởng, mô hình kinh doanh mới trên nền tảng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh... Cách thức cải cách cũng cần phải đổi mới quyết liệt hơn.

Thị trường Tiền tệ        

- Thị trường ngoại tệ

Thị trường ngoại tệ trong tuần từ 3-6/1, tỷ giá trung tâm tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh theo xu hướng giảm. Chốt ngày 6/1, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.605 VND/USD, giảm 7 đồng so với cuối tuần trước đó. Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết giá mua USD ở 23.450 VND/USD, giá bán ở 24.780 VND/USD. Tỷ giá USD/VND liên ngân hàng giảm mạnh qua các phiên trong tuần qua. Chốt phiên cuối tuần 6/1, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 23.469 VND/USD, giảm 131 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. Tỷ giá trên thị trường tự do tiếp tục giảm trong tuần qua, tuy đà giảm đã chậm lại. Chốt phiên 6/1, tỷ giá tự do giảm 35 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra, giao dịch tại 23.680 VND/USD và 23.740 VND/USD.

USD Index hiện ở mức 103,91. Tỷ giá EUR so với USD tăng 1,15% ở mức 1,0643. Tỷ giá đồng bảng Anh so với USD tăng 1,52% ở mức 1,2093. Tỷ giá USD so với Yen Nhật giảm 0,97% ở mức 132,11. Đồng USD đã kết phiên giao dịch tuần giảm từ mức gần cao nhất trong một tháng sau khi dữ liệu việc làm lành mạnh cho thấy một thị trường lao động mạnh mẽ trước báo cáo việc làm chính thức được nhiều người theo dõi. Theo đó, thị trường lao động vẫn khỏe mạnh trong tháng 12, với 223.000 việc làm mới được tạo thêm, cao hơn dự đoán và tỷ lệ thất nghiệp ở mức 3,5%, thấp hơn dự đoán.

 - Thị trường nội tệ

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên xem xét phân bổ chỉ tiêu (room) tín dụng sớm, ngay từ đầu năm để các ngân hàng xây dựng kế hoạch kinh doanh và giải ngân sớm giúp doanh nghiệp tăng tốc hoạt động.

NHNN đảm bảo thanh khoản, cung cấp vốn trên thị trường liên ngân hàng để các nhà băng đưa vốn ra cho doanh nghiệp nhanh nhất. Bởi nếu công bố room tín dụng nhưng ngân hàng không có tiền để cho vay thì nút thắt này cũng không gỡ được.

Nhu cầu vốn đang bức thiết và rất hồi hộp vì năm 2023 đã đến nhưng không biết hồ sơ vay vốn có được ngân hàng thông qua hay không, tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2023, mục tiêu điều hành của NHNN sẽ không có nhiều thay đổi. Theo đó, nhà điều hành sẽ tiếp tục căn cứ vào trạng thái thực tế của thị trường để có những giải pháp phù hợp. 

Tuy nhiên, với mặt bằng lãi suất đang ở mức cao (tương đương giai đoạn 2011-2012) và tăng trưởng kinh tế trong năm 2023 dự báo gặp nhiều khó khăn, chính sách tiền tệ sẽ có xu hướng nới lỏng hơn nhằm thúc đẩy tăng trưởng. 

Trong khi đó tăng trưởng tín dụng năm nay sẽ tiếp tục chậm lại, trong khoảng 11-12%. Nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng tới chỉ tiêu này là thị trường bất động sản kém khả quan, tăng trưởng xuất khẩu chậm lại và lãi suất tăng.

 Áp lực lạm phát cũng là nguyên nhân khiến tăng trưởng tín dụng có thể chậm lại. Năm 2023, lạm phát được dự báo vẫn sẽ ở mức cao do tiền lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức tăng 20,8% (có hiệu lực từ tháng 7/2023) và sự gia tăng ở các dịch vụ y tế, vận tải công cộng.

Ngoài ra, căng thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng cũng sẽ làm tăng trưởng tín dụng chậm lại. tính đến cuối quý III/2022, các ngân hàng đã ghi nhận tỷ lệ dư nợ tín dụng/huy động vốn (LDR) tăng mạnh, một số nhà băng đã gần chạm ngưỡng quy định (85%).

Báo cáo mới nhất của NHNN cho biết tăng trưởng tín dụng cả năm 2022 đạt 14,5%, mức cao nhất trong vòng 5 năm. Với mức tăng trưởng tín dụng này, toàn hệ thống ngân hàng đã bơm ròng ra nền kinh tế hơn 1,5 triệu tỷ đồng thông qua kênh tín dụng. Đến cuối năm 2022, tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế ước đạt xấp xỉ 12 triệu tỷ đồng.

Dự báo tăng trưởng tín dụng năm 2023 sẽ vào khoảng 11-12% với nguyên nhân chính là cầu tín dụng giảm trong bối cảnh lãi suất tăng cùng với các động lực tăng trưởng kinh tế có xu hướng suy giảm và quan điểm hạn chế tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro của nhà điều hành.

Do vậy, mức room tín dụng cụ thể sẽ do NHNN xem xét các yếu tố hiện hữu để cân đối, tính toán mức hợp lý. các ngân hàng có cơ cấu tín dụng lành mạnh, tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, chất lượng tài sản tốt, tỷ lệ an toàn vốn cao và quản trị rủi ro tốt có thể sẽ được cấp hạn mức tín dụng cao hơn.

Việc công bố mức tăng trưởng tín dụng cũng như kế hoạch của hệ thống ngân hàng càng sớm càng tốt và phải thực hiện ngay. Điều đó không chỉ giúp ngân hàng thương mại có kế hoạch hoạt động mà ngay cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng có thể triển khai được hoạt động sản xuất kinh doanh khi đảm bảo được nguồn vốn. Nhưng quan trọng hơn là NHNN phải đảm bảo thanh khoản, cung cấp vốn trên thị trường liên ngân hàng để các nhà băng đưa vốn ra cho doanh nghiệp nhanh nhất. Bởi nếu công bố room tín dụng nhưng ngân hàng không có tiền để cho vay thì nút thắt này cũng không gỡ được.

 Hạn mức tín dụng năm 2023, NHNN cho biết: "Chỉ tiêu tín dụng năm 2023 sẽ được NHNN xem xét rất thận trọng nhưng không có nghĩa là cứng nhắc. Riêng với điều hành tín dụng năm 2023 cũng như các năm gần đây, NHNN luôn có thông điệp rất rõ ràng đó là NHNN luôn luôn hỗ trợ, cung ứng vốn đầy đủ, kịp thời cho nền kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát. Luôn lấy mục tiêu kiểm soát lạm phát là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong điều hành tăng trưởng tín dụng".

Trước bối cảnh hiện nay, NHNN sẽ ưu tiên các ngân hàng thương mại có cơ cấu tín dụng lành mạnh (tỷ trọng cho vay các phân khúc rủi ro như bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp thấp và/hoặc tỷ trọng cho vay bán lẻ cao); tham gia cơ cấu lại các tổ chức tài chính yếu kém, chất lượng tài sản lành mạnh, tỷ lệ an toàn vốn cao và quản trị rủi ro tốt.

Tuần qua lãi suất liên ngân hàng có xu thế tăng, cụ thể ngày 6/1/2023, Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất bình quân liên ngân hàng tăng. Lãi suất tiền đồng kỳ hạn qua đêm lên 5,09%, 1 tuần lên 6,06%, 2 tuần lên 5,69%, 1 tháng 8,22, 3 tháng lên 9,89%, 6 tháng lên 11,12 và 9 tháng lên 9,61%.

 Thị trường Vàng

Tuần qua, giá vàng trong nước diễn biến cùng xu hướng với giá vàng thế giới. Thị trường vàng thế giới biến động với xu hướng tăng nhờ đồng USD và lợi suất trái phiếu Mỹ giảm.Trong tuần, giá vàng trong nước xuống thấp nhất là 66,1 – 66,9 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra) ngày 06/1 và cao nhất 66,45 – 67,25 triệu đồng/lượng ngày 05/1.

Quy đổi theo giá USD của ngân hàng Vietcombank (23.630 đồng), giá vàng thế giới tương đương 53,09 triệu đồng/lượng, thấp hơn 14,21 triệu đồng/lượng so với giá vàng trong nước.

Thị trường Bất động sản

Theo Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA) ước tính, 58% giá trị TPDN đang lưu hành vào tháng 6/2022 sẽ đáo hạn trong vòng hai năm tới, trong đó TPDN bất động sản chiếm 35,9%. Tuy nhiên, một số diễn biến thị trường gần đây có thể tạo áp lực lên khả năng tái cấp vốn của các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Nếu các tổ chức phát hành trái phiếu (đặc biệt là các chủ đầu tư bất động sản) không thể tái cấp vốn, điều này có thể tăng rủi ro cho các ngân hàng do có thể dẫn đến khả năng hình thành nợ xấu và chi phí dự phòng cao hơn, qua đó ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận.

Theo thống kê của Savills, nguồn cung sơ cấp trên thị trường căn hộ Hà Nội quý cuối năm 2022 đạt 20.333 căn, giảm 3% so với quý trước và giảm 6% so với cùng kỳ năm ngoái. Toàn bộ nguồn cung mới đến từ giai đoạn tiếp theo của 6 dự án hiện tại. Tính cả năm 2022, nguồn cung căn hộ mới đạt mức thấp nhất trong 8 năm vừa qua. Hoạt động trầm lắng khi lượng giao dịch cả sơ cấp và thứ cấp chỉ đạt 2.890 căn, giảm 20% theo quý và 30% theo năm. Trong đó, 76% lượng giao dịch thuộc về căn hộ có giá tầm trung. Với tổng sản phẩm mới mở bán, tỷ lệ hấp thụ theo Savills chỉ đạt 28%.

Còn theo báo cáo thị trường bất động sản mới đây của Colliers cho biết, trong quý IV/2022, thị trường căn hộ dịch vụ tại TP HCM ghi nhận kết quả tích cực. Cả hai phân khúc hạng A và hạng B chứng kiến sự tăng trưởng công suất cho thuê so với quý III/2022, lần lượt từ 81% lên 92% và từ 77,5% lên 88%. Giá thuê căn hộ dịch vụ hạng A dao động 1.700 - 7.500 USD/căn/tháng, bình quân hơn 30 USD/m2/tháng và hạng B dao động 1.100 - 5.400 USD/căn/tháng, bình quân gần 25 USD/m2/tháng.

Thị trường Chứng khoán

Vọt hơn 700 điểm, Dow Jones chứng kiến phiên tăng mạnh nhất kể từ cuối tháng 11/2022, chứng khoán Mỹ bật tăng vào ngày thứ Sáu (06/01), sau khi báo cáo việc làm tháng 12/2022 và một cuộc khảo sát các hoạt động kinh tế Mỹ cho thấy lạm phát có thể đang hạ nhiệt, một tín hiệu rằng các đợt nâng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang có tác động như mong đợi.

Kết thúc phiên giao dịch ngày thứ Sáu, chỉ số Dow Jones tăng 700.53 điểm (tương đương 2.13%) lên 33,630.61 điểm. Chỉ số S&P 500 tiến 86.98 điểm (tương đương 2.28%) lên 3,895.08 điểm. Chỉ số Nasdaq Composite cộng 264.05 điểm (tương đương 2.6%) lên 10,569.29 điểm.

Đây là phiên tăng mạnh nhất của Dow Jones và S&P 500 kể từ ngày 30/11/2022 và là phiên tốt nhất của Nasdaq Composite kể từ ngày 29/12/2022. Mỗi cổ phiếu thành phần thuộc Dow Jones đều khép phiên ngày thứ Sáu với sắc xanh.

Đà tăng trong ngày thứ Sáu đã giúp chứng khoán Mỹ ghi nhận mức tăng trong tuần, tuần đầu tiên của năm mới 2023. Dow Jones và S&P 500 đều tăng 1.5% trong tuần qua, còn Nasdaq Composite tiến 1%.

Báo cáo việc làm tháng 12/2022 của Mỹ cho thấy nền kinh tế nước này đã tạo ra thêm 223,000 việc làm trong tháng trước, cao hơn một chút so với dự báo 200,000 việc làm từ một cuộc thăm dò của Dow Jones. Ngoài ra, tiền lương tăng chậm hơn dự báo, chỉ cộng 0.3% trong tháng trước, thấp hơn so với dự báo tăng 0.4% từ các chuyên gia kinh tế.

Michael Arone, Giám đốc chiến lược đầu tư tại State Street Global Advisors, nhận định: “Tất cả những gì nhà đầu tư quan tâm là dữ liệu cho thấy lạm phát đang hướng về mức mục tiêu của Fed. Và thu nhập bình quân mỗi giờ cho thấy lạm phát tiếp tục giảm. Họ rất vui mừng về điều đó”.

Chứng khoán Mỹ tăng trở lại khi chỉ số quản lý mua hàng PMI phi sản xuất của ISM cho thấy ngành dịch vụ đã thu hẹp trong tháng 12, một dấu hiệu cho thấy các đợt nâng lãi suất của Fed có thể đang làm chững lại nền kinh tế.

Thị trường chứng khoán trong nước  

Chứng khoán tuần 03-06/01/2023 tâm lý thận trọng vẫn còn, tâm lý thận trọng vẫn còn hiện diện trên thị trường dù có phiên đầu tuần tăng tốt. Khối lượng giao dịch trồi sụt cho thấy dòng tiền vẫn chưa thật sự trở lại. Điểm tích cực là khối ngoại vẫn đang duy trì mua ròng.

Thị trường giao dịch tiêu cực trong phiên cuối tuần, VN-Index giảm nhẹ 4.38 điểm, xuống mức 1,051.44 điểm; HNX-Index giảm 2.46 điểm, xuống còn 210.65 điểm. Xét cho cả tuần, VN-Index tăng tổng cộng 44.35 điểm (+4.4%), HNX-Index tăng 5.34 điểm (+2.6%).

Khối lượng khớp lệnh trung bình trên sàn HOSE đạt hơn 549 triệu cổ phiếu/phiên, tăng 25.82% so với tuần giao dịch trước. Sàn HNX đạt trung bình hơn 61 triệu cổ phiếu/phiên, tăng 17.25% so với tuần giao dịch trước.

Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng - Purchasing Managers' Index ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global đã giảm xuống mức 46.4 điểm trong tháng 12 so với 47.4 của tháng 11, cho thấy chỉ số này lần thứ hai liên tiếp nằm dưới ngưỡng trung tính 50 điểm, phản ánh các điều kiện kinh doanh ngành sản xuất tiếp tục suy giảm. Mức giảm kỳ này là đáng kể nhất kể từ đợt suy thoái liên quan đến đại dịch được ghi nhận trong quý 3 năm 2021.

Mở cửa phiên giao dịch đầu năm, VN-Index có sự bứt phá khi tăng mạnh 36.81 điểm. Nhiều cổ phiếu Large Cap hiện sắc xanh ủng hộ cho đà tăng này của chỉ số. Khối lượng giao dịch cũng có sự hồi phục so với tuần trước, tuy nhiên vẫn nằm dưới mức trung bình 20 ngày. Những phiên giao dịch sau đó, tâm lý thận trọng trở lại khiến VN-Index liên tục giằng co. Chỉ số tăng nhẹ lần lượt ở mức 2.45 điểm và 9.47 điểm trước khi đảo chiều giảm 4.38 điểm ở phiên giao dịch cuối tuần. Tính cho cả tuần, VN-Index tăng tổng cộng 44.35 điểm, lên mức 1,051.44 điểm.

Xét theo mức độ đóng góp, VCBBIDVICSAB và HPG là những cổ phiếu có tác động tích cực nhất đến VN-Index. Tính riêng bộ đôi VCB và BID đã góp gần 9 điểm tăng cho chỉ số này. Ở chiều ngược lại, VJCNVLPVT là những cổ phiếu có tác động tiêu cực nhất, nhưng không ảnh hưởng nhiều đến chỉ số.

Ngành vật liệu xây dựng có tuần giao dịch tương đối tích cực. Trong đó, nhóm cổ phiếu sắt thép cùng ghi nhận mức tăng đáng kể. Tính cho cả tuần, HPG tiến 7.78%, HSG leo dốc 9.52%, NKG bứt phá 8.16%. Theo Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), thị trường sắt thép thế giới đã bước vào giai đoạn phục hồi trong khoảng 2 tháng trở lại đây, với kỳ vọng nhu cầu sẽ có sự cải thiện, đặc biệt là các khu vực như Trung Quốc và Ấn Độ. Đây được xem là thông tin hỗ trợ tích cực cho sự hồi phục của nhóm cổ phiếu này.

Trong ngành ngân hàng, bên cạnh bộ đôi VCB và BID, nhiều cổ phiếu khác cũng có tuần giao dịch sôi động. Cụ thể, VPB tăng 5.87%, TPB tiến tốt 6.89%, STB tăng 8%, HDB hiện sắc xanh 3.13%...

Nhà đầu tư nước ngoài mua ròng gần 1,721 tỷ đồng trên cả hai sàn. Khối ngoại mua ròng gần 1,633 tỷ đồng trên sàn HOSE và mua ròng gần 88 tỷ đồng trên sàn HNX.

IBC tăng 30.43%: Sau chuỗi 26 phiên giảm sàn, cổ phiếu IBC đã bật tăng trở lại với liên tiếp những phiên tăng trần. Khối lượng giao dịch cũng có sự bứt phá mạnh và liên tục nằm trên trung bình 20 ngày gần nhất.

HSG tăng 9.52%: Cùng xu hướng chung với nhóm cổ phiếu sắt thép, HSG có tuần giao dịch ấn tượng khi tăng mạnh gần 10% trong tuần qua. Chỉ báo Stochastic Oscillator đã cho mua, MACD cũng đang hướng lên, nếu chỉ báo này cho mua trong thời gian tới thì triển vọng trong ngắn hạn của cổ phiếu sẽ tích cực hơn. Tuy nhiên, khối lượng giao dịch của HSG vẫn duy trì dưới mức trung bình 20 ngày cho thấy nhà đầu tư vẫn còn khá thận trọng.

SGT giảm 12.17%: SGT có tuần giao dịch ảm đạm khi liên tiếp hình thành những cây nến đỏ trong tuần qua. Khối lượng giao dịch sụt giảm mạnh cho thấy dòng tiền đang rút khỏi cổ phiếu này.

Thị trường Upcom

Trên thị trường UPCoM, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng 1 phiên và mua ròng 3 phiên. Tổng cộng, khối ngoại đã mua ròng 101.490 đơn vị, giá trị mua ròng đạt 2,11 tỷ đồng, giảm 78,94% về lượng và 96,29% về giá trị so với tuần trước.

Cụ thể, khối này đã mua vào 1,48 triệu đơn vị, giá trị 34,11 tỷ đồng (giảm 21,77% về lượng và 70% về giá trị so với tuần trước); đồng thời bán ra 1,37 triệu đơn vị, giá trị 32 tỷ đồng (giảm 2,15% về lượng và 43,86% về giá trị so với tuần trước).

Chỉ số

Điểm

KLGD

(triệu đơn vị)

GTGD

(tỷ đồng)

KLGD bình quân/

phiên trong tuần

GTGD bình quân/ phiên trong tuần

Vn-Index

1.051.44

698,499.467

11,946,61

608,152,112

10,228.29

HNX-Index

210,65

70,719.300

981,09

67,957,507

955.88

UpCom-Index

72,75

 

56.283.257

 

786

 

41,260,223

 

512,28

 

 

Nguồn: Phòng Phân tích Dự báo, SRTC